Đề bài: Cảm nhận của em về bài ca dao: Thuyền ơi có nhớ bến chăng, Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền
Bạn đang xem: thuyền về có nhớ bến chăng bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền
Cảm nhận của em về bài ca dao: Thuyền ơi có nhớ bến chăng, Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền
I. Dàn ý Cảm nhận của em về bài ca dao: Thuyền ơi có nhớ bến chăng, Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền
1. Mở bài
Giới thiệu câu ca dao.
2. Thân bài
a. Hình tượng thuyền và bến:
– Thuyền và bến là hai sự thể gắn bó với nhau một cách chặt chẽ, con thuyền nào cũng vậy lênh đênh mãi biển khơi rồi cũng quay về sum hiệp với bến. Còn bến thì nghìn năm vẫn vậy, vẫn mãi ở tại một chỗ đợi thuyền về.
– Khi gán ghép và mối quan hệ nam – nữ, tình yêu và hôn nhân, thì thuyền chính là ẩn dụ cho người trai chí ở bốn phương, thích thú vẫy vùng, còn bến lại là ẩn dụ cho người phụ nữ Việt, một lòng thủy chung son sắt với tình yêu, chờ đợi tình nhân, trượng phu của mình sớm ngày trở về trong nỗi nhớ mong.
b. “Thuyền ơi có nhớ bến chăng”:
– Đây là lời thiết tha đong đầy thương nhớ của một người con gái đang mòn mỏi, băn khoăn về người yêu của mình.
– Hai từ “thuyền ơi”, tức là lời gửi tới người yêu, lời gọi người thương một cách tha thiết, kín đáo.
– “có nhớ bến chăng” lại là một lời ngỏ, lời băn khoăn thật dễ thương của người con gái trong tình yêu.
→ Thương lắm, yêu lắm nhưng cũng lại chẳng biết người ta có nhớ, có mong tới mình hay không, hay là con thuyền kia đang mải lung lạc, vùng vẫy ở phương trời nào, để bến chờ đợi trong mòn mỏi, rầu rĩ, xao xuyến.
– Đối với những người phụ nữ đã có chồng, nhưng lại không được sắp chồng, phải chịu cảnh biệt ly, người trượng phu mải làm ăn phương xa, hoặc thống khổ hơn là chồng phải vào chiến tuyến, thì nỗi nhớ ấy càng trở nên day dứt khôn nguôi.
c. “Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”:
– Song hành cùng với nỗi nhớ nhung, mong mỏi, người con gái cũng bộc bạch tấm lòng sắt son chung thủy của mình, mà hai từ “khăng khăng” ở đây là biểu hiện cho sự vững chãi không đổi dời.
– Thêm vào đó câu “Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền” không chỉ bộc lộ tình yêu thủy chung son sắt của người phụ nữ mà nó còn thể hiện một niềm tin, một niềm hy vọng.
– Bộc lộ sự vĩ đại và hy sinh của người phụ nữ xưa trong tình yêu họ chỉ có một lợi thế duy nhất là việc người nam nhi sẽ trở về, nhưng không biết phải tới tận tháng ngày năm nào, vậy mà họ vẫn khăng khăng chung thủy, mong mỏi, chấp nhận cho nhan sắc tàn úa, để giữ trọn lòng trung trinh.
=> Vừa cảm phục lại cũng có rất nhiều xót thương cho phận nữ giới tam tòng tứ đức. Chung quy lại, trong câu ca dao này chú trọng nhất là vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt, thứ nhất là có một tình yêu nhẹ nhõm, tinh tế, hai nữa là tấm lòng thủy chung son sắt không đổi dời, sẵn sàng hy sinh tuổi xuân để đợi chờ người mình yêu.
3. Kết bài
Nêu cảm nhận chung.
Xem thêm: kì nghỉ tết dương 2k
II. Bài văn mẫu Cảm nhận của em về bài ca dao: Thuyền ơi có nhớ bến chăng, Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền
Văn học Việt Nam không chỉ phong phú và đa dạng nhờ một số lượng những tác giả từ thời trung đại tới hiện đại với hàng nghìn chủ đề khác nhau, phản ánh những trị giá quan niệm thẩm mỹ trong từng thời kỳ. Mà sự đặc sắc độc đáo của văn học Việt còn tới từ một kho tàng văn học dân gian khổng lồ và sâu sắc, đánh dấu rất rõ nét văn hóa của người Việt từ thời thượng cổ bao gồm những thể loại tiêu biểu như ca dao, dân ca, tục ngữ, thành ngữ, những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết,… Tất cả đều chứa đựng những trị giá, những bài học đáng quý mà tổ tông muốn truyền lại cho con cháu sau này, ví như những bài học về tình thân, tình yêu, về cung cách đối xử giữa người với người. Cũng có những câu ca dao rất hay về mối quan hệ nam nữ, tình yêu và sự chung thủy tiêu biểu như “Thuyền ơi có nhớ bến chăng/Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”.
Câu ca dao trên chẳng biết đã có từ bao giờ, thế nhưng nếu như so sánh với những bài thơ tình hiện đại lãng mạn, mùi mẫn ngày ngày hôm nay có nhẽ cũng không hề thua kém, thậm chí còn nhỉnh hơn một tẹo về cái sự kín đáo, đẹp đẽ được gợi ra từ hai hình tượng thuyền và bến. Trong đời cuộc sống thực tiễn ta vẫn luôn thấy một điều rằng thuyền và bến là hai sự thể gắn bó với nhau một cách chặt chẽ, con thuyền nào cũng vậy lênh đênh mãi biển khơi rồi cũng quay về sum hiệp với bến. Còn bến thì nghìn năm vẫn vậy, vẫn mãi ở tại một chỗ đợi thuyền về, chịu biết bao mưa gió dãi dầu, sớm trưa nhưng chưa lúc nào bến để thuyền thiếu chỗ neo đậu. Khi gán ghép và mối quan hệ nam – nữ, tình yêu và hôn nhân, thì thuyền chính là ẩn dụ cho người trai chí ở bốn phương, thích thú vẫy vùng, còn bến lại là ẩn dụ cho người phụ nữ Việt, một lòng thủy chung son sắt với tình yêu, chờ đợi tình nhân, trượng phu của mình sớm ngày trở về trong nỗi nhớ mong. Và nếu như như đọc cả câu ca dao thì có nhẽ đây là lời thiết tha đong đầy thương nhớ của một người con gái đang mòn mỏi, băn khoăn về người yêu của mình. “Thuyền ơi có nhớ bến chăng?”, người phụ nữ xưa và trong nền văn hóa xưa trong tình yêu, người ta không bao giờ bộc bạch một cách lộ liễu, thay vào đó những lời thương nhớ thường được tỏ bày một cách đầy ngụ ý và tinh tế. Hai từ “thuyền ơi”, tức là lời gửi tới người yêu, lời gọi người thương một cách tha thiết, kín đáo, “có nhớ bến chăng” lại là một lời ngỏ, lời băn khoăn thật dễ thương của người con gái trong tình yêu. Thương lắm, yêu lắm nhưng cũng lại chẳng biết người ta có nhớ, có mong tới mình hay không, hay là con thuyền kia đang mải lung lạc, vùng vẫy ở phương trời nào, để bến chờ đợi trong mòn mỏi, rầu rĩ, xao xuyến. Đó là với những cặp tình nhân còn chưa nên duyên vợ chồng, còn đối với những người phụ nữ đã có chồng, nhưng lại không được sắp chồng, phải chịu cảnh biệt ly, người trượng phu mải làm ăn phương xa, hoặc thống khổ hơn là chồng phải vào chiến tuyến, thì nỗi nhớ ấy càng trở nên day dứt khôn nguôi. Mà tiêu biểu nhất ta có thể thấy được nỗi thống khổ, rầu rĩ và xấu số của họ trong một số tác phẩm văn học Việt Nam như Chinh phụ ngâm hoặc Chuyện người con gái Nam Xương.
tới câu thứ hai “Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”, song hành cùng với nỗi nhớ nhung, mong mỏi, người con gái cũng bộc bạch tấm lòng sắt son chung thủy của mình, mà hai từ “khăng khăng” ở đây là biểu hiện cho sự vững chãi không đổi dời. Tấm lòng của người phụ nữ Việt khi xưa nói mềm mại thì có mềm mại, thế nhưng khi nói tới sự chung thủy trong tình yêu thì có nhẽ sông cạn đá mòn cũng chẳng bao giờ thay đổi dù chỉ một tẹo. Mà cái thay đổi chỉ có thể là nhan sắc người thiếu phu, tóc bạc da mồi theo năm tháng, còn tình yêu và nỗi thương nhớ vẫn đong đầy như những ngày mới chia ly. Thêm vào đó câu “Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền” không chỉ bộc lộ tình yêu thủy chung son sắt của người phụ nữ mà nó còn thể hiện một niềm tin, một niềm hy vọng rằng người chồng, người yêu của mình cũng sẽ có một ngày dong thuyền cập bến, rồi ta lại có những tháng ngày sống điền viên hạnh phúc. Xét lại sức phụ nữ xưa, tình yêu của họ thật vĩ đại, họ chỉ có một lợi thế duy nhất là việc người nam nhi sẽ trở về, nhưng không biết phải tới tận tháng ngày năm nào, rồi liệu có chờ được hay không, vậy mà họ vẫn khăng khăng chung thủy, mong mỏi, chấp nhận cho nhan sắc tàn úa, để giữ trọn lòng trung trinh. Điều ấy khiến chúng ta ngày ngày hôm nay có rất nhiều phần cảm phục lại cũng có rất nhiều xót thương cho phận nữ giới tam tòng tứ đức, cả thế cuộc chỉ có thể dựa dẫm và đấng nam nhi. Cũng chính vì lẽ đó mà nhiều phụ nữ dưới chế độ phong kiến xưa phải chịu những kết cuộc xấu số, như nàng Vũ Nương chăm mẹ già, nuôi con nhỏ một mình đằng đẵng chờ chồng đi đánh giặc trở về để hưởng cuộc sống điền viên, thì lại bị vu cho cái tội thất tiết, nhăng nhít, cuối cùng phải lựa chọn cái chết để thân oan, hay chuyện nàng Vương Bảo Xuyến của Trung Hoa nổi tiếng xinh đẹp chờ chồng là Tiết Bình Quý đi đánh trận ròng rã rã 18 năm trời, nhưng ngày trở về chồng nàng còn dẫn theo một người vợ là công chúa, cuối cùng nhan sắc đã úa tàn lại còn phải chịu cảnh chung chồng thê lương. Không biết được rằng có bao nhiêu người phụ nữ tự ví mình là “bến” một dạ khăng khăng đợi thuyền mà có được cuộc sống hạnh phúc viên mãn. Nhưng chung quy lại, trong câu ca dao này khoan nói tới chuyện đợi chờ, xấu số, mà chú trọng nhất là vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt, thứ nhất là có một tình yêu nhẹ nhõm, tinh tế, hai nữa là tấm lòng thủy chung son sắt không đổi dời, sẵn sàng hy sinh tuổi xuân để đợi chờ người mình yêu, âu cũng là điều đáng quý.
Hình tượng thuyền và bến trong câu ca dao là một hình tượng đẹp đẽ có rất nhiều ý nghĩa, gắn liền với những hình ảnh thôn quê dân dã của người Việt, đồng thời cũng là những ẩn dụ tinh tế, để bộc lộ tình yêu giữa nam và nữ, thể hiện được những đức tính tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam xưa bao gồm tấm lòng chung thủy sắt son, và sự đợi chờ không tiếc nuối trong tình yêu.
Bài viết là những cảm nhận chủ quan về ý nghĩa của một trong những câu ca dao nổi tiếng khi viết về đề tài tình yêu lứa đôi trong văn học dân gian Việt Nam. Để tham khảo thêm những bài viết với chủ đề tương tự, đặc biệt là về hình tượng người phụ nữ xưa mời những em tham khảo những bài sau Cảm nhận về câu ca dao: Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay người nào, tìm hiểu bài ca dao Thương thay thân phận con tằm, Cảm nhận của em về số phận người phụ nữ qua những câu ca dao than thân, yêu thương, tình nghĩa, Chứng minh câu ca dao Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Xem thêm: Phân tích tác phẩm "Hiền tài là nguyên khí của quốc gia" Môn Ngữ văn Lớp 10
Bản quyền bài viết thuộc trường Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung (sdc.org.vn)
Bình luận